sang kien kinh nghiem

  1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

          1.1. Đặt vấn đề:

Ngày 22/02/2012 Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011 đến 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 (Quyết định số 226/QĐ-TTg). Trong đó đã nêu mục tiêu của chương trình dinh dưỡng học đường là “Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng, nâng cao tình trạng dinh dưỡng của trẻ em trong hệ thống trường học”. Và trong đề án phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi (Quyết định số 239/QĐ-TTg) cũng có tiêu chuẩn về tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng phải dưới 10%.

Như chúng ta đã biết, trẻ suy dinh dưỡng không hẳn là do thiếu thốn về vật chất mà có thể do sự thiếu hiểu biết của cha mẹ về cách chăm sóc dinh dưỡng. Đây là hiện tượng khá phổ biến không chỉ xảy ra ở vùng nông thôn mà ngay cả ở những thành phố lớn. Do đó việc phục hồi dinh dưỡng cho trẻ suy dinh dưỡng là rất quan trọng và cần thiết. Tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em là sự hạn chế về chiều cao, suy giảm về thể lực; dẫn đến sức học tập kém, ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống sau này và lại tiếp tục sinh ra những thế hệ thấp bé.

Thật vậy, trên thực tế hiện nay tình hình suy dinh dưỡng của trẻ trong trường mầm non là rất nhiều, đầu năm học khi nhận trẻ vào trường, phần lớn các cháu trong tình trạng gầy còm, thấp bé, kém ăn, khả năng học tập rất thấp. Trong khi đó nhiệm vụ của trường mầm non ngoài việc giảng dạy còn có nhiệm vụ chăm sóc nuôi dưỡng cho trẻ, các cháu được chăm sóc tốt, cơ thể khỏe mạnh, phát triển tốt thì các cháu mới có thể tiếp thu kiến thức tốt.

Chính vì thế, là người cán bộ quản lý trường mầm non thì cần phải đặt hai nhiệm vụ chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục ở tầm quan trọng ngang bằng nhau. Và qua thời gian làm công tác quản lý trường mầm non, tôi càng nhận thấy công tác quản lý hoạt động phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ tại trường tôi “Trường Mầm Non Vĩnh Trị, xã Vĩnh Trị, huyện Vĩnh Hưng,  tỉnh Long An” là hết sức cấp bách. Nhận thức được tầm quan trọng của việc phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ trong nhà trường nên tôi đã mạnh dạn tham gia viết sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp phòng chống suy dinh dưỡng tại trường Mầm Non Vĩnh Trị” để nhìn lại và có phương hướng tốt hơn cho công tác quản lý hoạt động phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ tại trường mình.

1.2- Mục đích đề tài:

Nhằm phát hiện và phục hồi sức khỏe cho trẻ bị suy dinh dưỡng nhằm góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho trẻ. Dựa theo tình hình thực tế của trường, tôi đã cố gắng tìm ra những biện pháp thích hợp để phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ. Trang bị cho trẻ thể chất khỏe mạnh giúp trẻ phát triển toàn diện. Trẻ có một tâm thế vững vàng tự tin để bước tiếp các bậc học sau này.

          1.3- Lịch sử đề tài:

Nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ. Trong đó, giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng trong nhà trường là một yêu cầu hết sức cần thiết. Từ những năm qua, tôi đã nghiên cứu, tự học, tự rèn, cùng với việc đúc kết các kinh nghiệm thực tế trong quá trình công tác để tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất để áp dụng sao cho đạt kết quả tốt nhất. Từ năm học 2014-2015, tôi đã chính thức nghiên cứu và áp dụng “Một số biện pháp phòng chống trẻ suy dinh dưỡng tại trường Mầm Non Vĩnh Trị”. Tuy nhiên, qua một năm áp dụng, tôi nhận thấy cần bổ sung và sửa đổi một số biện pháp để nâng cao hiệu quả hơn nữa. Vì vậy, trong năm học 2015-2016 này tôi đã tiếp tục nghiên cứu, hoàn chỉnh và áp dụng đề tài này.

          1.4- Phạm vi đề tài:

Đề tài nghiên cứu về “Một số biện pháp phòng chống suy dinh dưỡng tại trường Mầm Non Vĩnh Trị”

  1. NỘI DUNG CÔNG VIỆC:

           2.1- Thực trạng:

           2.1.1-Thuận lợi:

Trường Mầm Non Vĩnh Trị nằm cụm dân cư xã Vĩnh Trị, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An. Trường có 02 điểm trường, 1 điểm chính, 1 điểm phụ. Trường đạt chuẩn quốc gia mức độ I vào năm 2014.

Trường hiện tại có 6 lớp (01 nhóm trẻ, 01 lớp mầm, 01 lớp chồi và 3 lớp lá). Với tổng số học sinh: 126 trẻ. Trong đó, nhà trẻ: 12 trẻ; mẫu giáo: 114 trẻ. Diện tích khuôn viên nhà trường là 3.255 m2 với 6 phòng học bán kiên cố, 1 bếp ăn tập thể đạt chuẩn và 02 sân chơi có đầy đủ đồ chơi, thiết bị ngoài trời cho trẻ vui chơi. Các lớp có  80% đồ dùng đồ chơi theo qui định.

Đội ngũ cán bộ, giáo viên và nhân viên trong nhà trường có 19 người (Trong đó CBQL: 02, giáo viên: 13, nhân viên: 04). Đa số cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường rất nhiệt tình trong công tác, luôn đoàn kết giúp đỡ nhau.

Nhờ có đội ngũ công chức, viên chức nhiệt tình và tận tụy nên trường luôn giữ vững được thành tích tập thể lao động tiên tiến nhiều năm liền và đạt được những chỉ tiêu như: tỉ lệ trẻ 5 tuổi ra lớp mẫu giáo luôn đạt 100%, chất lượng giảng dạy năm sau cao hơn năm trước từ 2-3%, tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng giảm…

Cơ sở vật chất của nhà trường đầy đủ, công trình vệ sinh nguồn nước đã được đảm bảo cho trẻ sử dụng, đồ dùng học tập cũng như phục vụ bán trú cho trẻ được trang bị đầy đủ. Nhà bếp được xây dựng theo quy trình một chiều.

Đặc biệt nhà trường có 1 phòng y tế riêng, 1 nhân viên kế toán theo dõi thu, chi tiền ăn của trẻ theo nguyên tắc tài chánh hiện hành.

Trường cũng được Phòng Giáo dục và Đào tạo quan tâm rất nhiều, tạo mọi điều kiện cho nhà trường hoạt động như: hỗ trợ đồ dùng đồ chơi, thiết bị dạy học cũng như thường xuyên quan tâm, thăm hỏi động viên tinh thần cho đội ngũ công chức, viên chức trong nhà trường an tâm công tác. Bên cạnh sự quan tâm của Phòng Giáo dục và Đào tạo thì trường còn được sự quan tâm, giúp đỡ rất tận tình của phụ huynh học sinh, đa số phụ huynh trong nhà trường rất quan tâm đến việc học tập cũng như sức khỏe của con em mình, hưởng ứng tích cực trong việc tổ chức bán trú cho trẻ, nâng cao mức ăn cho trẻ theo yêu cầu (15.000đ/ngày) , nhiệt tình tham gia các phong trào và các hoạt động của nhóm, lớp.

100% cán bộ, giáo viên trong nhà trường nắm vững kiến thức về nuôi dưỡng chăm sóc và giáo dục trẻ, đội ngũ nhà trường luôn tận tâm với nghề, hết lòng vì sự nghiệp giáo dục.

Trong quá trình quản lý đã được tập thể cán bộ giáo viên, lãnh đạo địa phương và đặc biệt là các bậc phụ huynh tin tưởng tạo điều kiện đầu tư vào công tác nuôi dưỡng.Vì vậy trong năm học 2015– 2016 chất lượng nuôi dưỡng chăm sóc và giáo dục trẻ đạt hiệu quả cao. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng đã giảm xuống đáng kể và không có trường hợp trẻ bị ngộ độc thức ăn xảy ra.

          2.1.2- Khó khăn:

– Nhân viên cấp dưỡng mặc dù đã được tập huấn kiến thức vệ sinh an toàn thực phẩm nhưng trình độ học vấn còn thấp (chỉ học hết cấp 2) và chưa được đào tạo về chuyên môn; một số giáo viên trong nhà trường chưa làm tốt công tác tuyên truyền về các kiến thức nuôi dạy con cho các bậc phụ huynh;

– Chưa có nhân viên y tế  ( giáo viên vừa kiêm nhiệm y tế vừa dạy lớp)

– Một số ít phụ huynh phó mặc cho nhà trường về chuyện chăm sóc con cái họ, họ không quan tâm đến việc ăn uống, nghỉ ngơi của con mình;

– Một số cháu là con cưng hay nũng nịu, kén ăn, không ăn thịt, cá, không ăn rau, quen với việc ba mẹ đút cho ăn, không tự xúc ăn được, ăn không hết suất;

– Công tác tuyên truyền phòng chống suy dinh dưỡng tại trường chưa hiệu quả vì đa số phụ huynh chưa quan tâm và không có thời gian rảnh;

– Kiến thức nuôi con theo khoa học đối với một số phụ huynh còn hạn chế nên không biết cách chăm sóc sức khỏe cũng như đảm bảo chế độ dinh dưỡng cho trẻ;

– Một số cháu con nhà nghèo nên chưa có chế độ ăn phù hợp dẫn đến việc cháu bị suy dinh dưỡng;

– Công tác tuyên truyền còn mang nặng tính hình thức chưa đi sâu vào nội dung;

Vào tháng 9 hàng năm trường tôi cũng như bao nhiêu trường khác trong huyện tổ chức ngày hội “Toàn dân đưa trẻ đến trường” và ngay sau đó chúng tôi thực hiện việc kiểm tra sức khỏe đầu năm cho bé. Sau khi các lớp cân, đo và tổng hợp kết quả thì những con số về tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ đã làm tôi đặc biệt chú ý. Ở độ tuổi này là giai đoạn trẻ phát triển mạnh về trí tuệ và có nhu cầu cao về dinh dưỡng, vì thế tôi rất quan tâm đến số trẻ bị suy dinh dưỡng này. Cụ thể trong năm học 2015-2016 trẻ suy dinh dưỡng là:

-Tổng số trẻ đến trường: 126/60 nữ

-Tổng số trẻ học bán trú: 101/32 nữ                     Đạt tỷ lệ: 80.2%

ĐỘ TUỔI TS Trẻ ra lớp TS trẻ được cân đo Số trẻ SDD Số trẻ thấp còi
SDDV SDDN ĐỘ 1 ĐỘ 2
NHÀTRẺ 12 12 1 0 1 3
MẦM 23 23 0 0 0 0
CHỒI 31 31 5 0 4 0
60 60 7 1 6 1
TỔNG CỘNG 126 126 13 1 11 4

Qua kết quả trên, tôi thấy rằng tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng đang còn ở mức cao, tôi không khỏi băn khoăn về công tác quản lý phòng chống suy dinh dưỡng của mình và câu hỏi luôn đặt ra cho tôi là mình phải làm gì để cải thiện tình trạng suy dinh dưỡng cho trẻ, làm thế nào cho trẻ có cơ thể khỏe mạnh và phát triển toàn diện.

2.2- Nội dung cần giải quyết:

Nhận thức đúng đắn về vai trò, tầm quan trọng của công tác phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ ở trường mầm non tôi đã đề ra một số nội dung cần giải quyết như sau:

Bồi dưỡng kiến thức thực hành dinh dưỡng, thực hiện tốt vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh trong chế biến cho đội ngũ cán bộ giáo viên, phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ.

Tổ chức vận dộng cho trẻ được bán trú tại trường.

Chỉ đạo giáo viên thường xuyên theo dõi sức khỏe của trẻ để phát hiện sớm các bệnh về dinh dưỡng thường gặp.

Chỉ đạo giáo viên tìm hiểu nguyên nhân trẻ bị suy dinh dưỡng.

Lên kế hoạch thực hiện phòng chống suy dinh dưỡng cho toàn trường thực hiện.

Chỉ đạo giáo viên chú ý tổ chức trò chơi vận động nhằm phát triển thể lực cho trẻ.

Thực hiện tốt các biện pháp vệ sinh phòng bệnh, vệ sinh cá nhân cô và trẻ.

Phối hợp với trạm y tế xã  khám sức khỏe và cân đo theo định kỳ, kiểm tra thường xuyên vệ sinh an toàn thực phẩm.

Coi trọng công tác tuyên truyền và kết hợp chặt chẽ với phụ huynh để khắc phục tình trạng suy dinh dưỡng.

Xây dựng thực đơn chuẩn (đảm bảo đủ lượng kcal, cân đối các chất, đa dạng, phong phú, sử dụng nhiều thực phẩm khác nhau, thay đổi theo mùa, theo tuần, theo ngày và đảm bảo chế độ tài chánh).

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát.

2.3- Biện pháp giải quyết:

Biện pháp 1: Bồi dưỡng kiến thức thực hành dinh dưỡng, thực hiện tốt vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh trong chế biến cho đội ngũ cán bộ giáo viên, phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ:

Đầu năm học tôi thường cho các cán bộ giáo viên, công nhân viên  trong trường học tập lại các nội dung yêu cầu của chuyên đề về thực hành dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh trong chế biến và phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ. Sau đó tập trung lại thảo luận những việc làm của mình về chuyên đề để các chị em khác chia sẻ, đóng góp lẫn nhau. Với cách làm này các chị em vừa tiếp thu được những kiến thức trên lý thuyết vừa xem lại trên thực tế những gì mình đã làm được, từ đó tự đưa ra kế hoạch một cách phù hợp với tình hình thực tế của lớp mình mà thực hiện tốt chuyên đề.

Hoạt động phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ và chế độ dinh dưỡng hợp  lý là rất cần thiết. Dinh dưỡng hợp lý đó là khẩu phần ăn hàng ngày phải đủ về số lượng và cân đối về chất lượng. Cân đối giữa chất sinh ra năng lượng, cân đối giữa thức ăn có nguồn gốc động vật và thực vật. Nhu cầu về dinh dưỡng của trẻ nếu tính theo cân nặng thì cao hơn người lớn. Vì vậy, muốn phòng chống suy dinh dưỡng có hiệu quả cần phải giúp cho trẻ có đầy đủ thức ăn để trẻ sinh trưởng, phát triển và vận động. Nên việc vận động trẻ học bán trú tại trường rất cần thiết với trường ở vùng sâu

. Nhằm  để thực hiện tốt công tác phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ thì ngay từ đầu năm học nhà trường luôn đảm bảo chế độ ăn theo quy định, thay đổi chế độ ăn, thực đơn cho phù hợp. Căn cứ vào nhu cầu năng lượng của từng độ tuổi để xây dựng khẩu phần ăn cho phù hợp. Đặc biệt quan tâm đến việc chăm sóc về tinh thần, tạo bầu không khí đầm ấm giúp trẻ có cảm giác như bữa ăn tại gia đình, trẻ ăn ngon miệng hơn. Chỉ đạo giáo viên ở các nhóm lớp quan sát trẻ ăn và động viên khuyến khích trẻ ăn hết suất, không làm rơi vải thức ăn. Thường xuyên xây dựng góc tuyên truyền tại các nhóm lớp như: những điều phụ huynh cần biết, bé thích ăn gì,… để giúp cho cha mẹ trẻ nắm được những thông tin cần thiết và từ đó thực hiện tốt nội quy của nhà trường như: cho trẻ ăn ngủ đúng giờ giấc, không cho trẻ mang quà bánh đến lớp,…

Phát động cuộc thi sáng tác, sưu tầm thơ, câu chuyện, câu đố, bài viết có nội dung giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Hướng dẫn cho giáo viên lồng ghép giáo dục dinh dưỡng vào các hoạt động sinh hoạt hàng ngày của trẻ, thể hiện rõ nét nhất là hoạt động “Bé tập làm nội trợ”. Giáo viên dạy trẻ biết sử dụng thành thạo các đồ dung dụng cụ như: dao, thớt, cốc, tô,…

Tổ chức vườn rau của bé tại trường để trẻ vừa được tiếp xúc với thiên nhiên vừa giúp trẻ trải nghiệm với thực tế và phát triển. Đồng thời cải thiện bữa ăn cho trẻ, trẻ có rau xanh hợp vệ sinh.

Luôn chú trọng đến khâu lựa chọn thực phẩm, khâu sơ chế, chế biến thức ăn, khâu bảo quản và chia thức ăn một cách khoa học nhất, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, tránh lãng phí đặc biệt là đảm bảo giá trị dinh dưỡng. Hàng ngày phải công khai tài chánh cho các bậc phụ huynh được biết và giám sát. Phối hợp với phụ huynh để mua thực phẩm do chính phụ huynh trồng và chăn nuôi để phụ huynh yên tâm về chất lượng.

Đối với người phụ trách nuôi dưỡng, tôi luôn bồi dưỡng những kiến thức qua cung cấp tài liệu, qua thử nghiệm hàng ngày và qua các hội thi dinh dưỡng để có kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm nhằm nâng cao chất lượng bữa ăn cho trẻ phù hợp với mọi lứa tuổi. Biết cách chế biến thức ăn và thực hiện đúng quy trình bếp một chiều, thực hiện tốt lưu mẫu thức ăn cả thực phẩm sống. Việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ phải đảm bảo đúng 10 nguyên tắc vàng trong ăn uống.

Học tập và trao đổi hinh nghiệm lẫn giữa các cơ sở giáo dục trong và ngoài tỉnh.

Biện pháp 2: Tổ chức vận dộng cho trẻ được bán trú tại trường:

Trẻ được học bán trú là một trong biện pháp hữu hiệu nhất nhằm phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ. Để thực hiện tốt công tác phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ thì ngay từ đầu năm học nhà trường tổ chức vận động cho trẻ được bán trú tại trường bằng nhiều hình thức như:

– Phối kết hợp ban ngành đoàn thể tuyên truyền ích lợi của việc cho trẻ học bán trú.

– Tuyên truyền qua loa phát thanh địa phương, cho hội phụ huynh tham gia vào việc tổ chức bán trú của con em mình.

– Phối hợp với phụ huynh để mua thực phẩm do chính phụ huynh trồng và chăn nuôi, chế biến ra để phụ huynh yên tâm về chất lượng.

-Tổ chức cho phụ huynh tham quan giờ ăn của trẻ, …..

Bên cạnh đó, tôi tiếp tục tìm hiểu nguyên nhân ở những trẻ không vào học bán trú và có biện pháp hữu hiệu hơn trong việc vận động trẻ bán trú. Số trẻ tham gia bán trú tại trường ngày càng cao. Cụ thể năm học 2013 – 2014 là 25 trẻ, năm học 2014- 2015 là 60 trẻ, năm học 2015-2016 là 101 trẻ.

Biện pháp 3: Chỉ đạo giáo viên thường xuyên theo dõi sức khỏe của trẻ để phát hiện sớm các bệnh về dinh dưỡng thường gặp:

Ngay từ đầu năm, trường đã lên kế hoạch và triển khai đến các nhóm lớp về việc cân đo trẻ hàng tháng và hàng quý tùy theo độ tuổi của trẻ.  Tất cả trẻ đều được theo dõi bằng biểu đồ tăng trưởng qua đó nắm bắt được tình hình sức khỏe của trẻ để cùng kết hợp với phụ huynh học sinh và giáo viên chủ nhiệm lớp chăm sóc sức khỏe cho trẻ. Sau đó tổng hợp kết quả nộp về BGH.

Kết quả cân đo lần 1 như sau:

+Số trẻ SDD: 14 trẻ chiếm tỉ lệ 11.11%

+Số trẻ thấp còi: 15 trẻ chiếm tỉ lệ  11.90%

Thường xuyên nhắc nhở giáo viên quan tâm đến sức khỏe của trẻ qua chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ như trong tổ chức giờ ăn, giấc ngủ của trẻ,…

Sau khi nắm tình hình sức khỏe trẻ, tôi tiếp tục cho giáo viên tìm hiểu nguyên nhân trẻ bị suy dinh dưỡng.

Biện pháp 4: Chỉ đạo giáo viên tìm hiểu nguyên nhân trẻ bị suy dinh dưỡng.

Vào đầu năm học, sau khi ổn định trẻ, nhà trường tiến hành cân đo, chấm biểu đồ toàn trường, kết hợp với trạm y tế xã Vĩnh Trị tổ chức khám sức khoẻ đợt I cho các cháu để tổng hợp và phân loại tình hình sức khoẻ đầu năm của các cháu. Sau khi nắm số liệu trẻ bị suy dinh dưỡng ở từng lớp, tôi đã tổ chức họp và hướng dẫn giáo viên tìm hiểu nguyên nhân trẻ bị suy dinh dưỡng. Yêu cầu giáo viên quan tâm đến đặc điểm tâm sinh lý của từng cháu, đặc biệt các cháu bị suy dinh dưỡng. Sau khi giáo viên đã thu thập thông tin về các nguyên nhân trẻ bị suy dinh dưỡng, tôi tập hợp các nguyên nhân và đề ra biện pháp chăm sóc cụ thể cho từng nhóm nguyên nhân đó:

STT Nguyên nhân Số trẻ SDD

thể nhẹ cân

Số trẻ SDD

thể thấp còi

1 Cung cấp thiếu chất dinh dưỡng do chưa cân đối khẩu phần ăn 6 6
2 Do trẻ bị sinh non 1 1
3 Do trẻ biếng ăn 7 8

 

Sau khi đã tổng hợp các nhóm nguyên nhân dẫn đến trẻ bị suy dinh dưỡng tôi đã chỉ đạo thực hiện cách chăm sóc trẻ theo từng nhóm nguyên nhân đó:

– Đối với nhóm cung cấp thiếu chất dinh dưỡng do chưa cân đối khẩu phần ăn:

+ Trong các bữa ăn tại trường cần cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng, cân đối, hợp lý trong khẩu phần ăn của trẻ. Đảm bảo cung cấp đầy đủ năng lượng, trong đó tỷ lệ:

Đối với nhà trẻ: Protit (chất đạm) khoảng 12% – 15%; Lipit (chất béo) khoảng 35% – 40%; Gluxit (chất bột) khoảng 45% – 53%.

Đối với mẫu giáo: Protit (chất đạm) khoảng 12% – 15%; Lipit (chất béo) khoảng 20% – 30%; Gluxit (chất bột) khoảng 55% – 68%.

+ Cần đảm bảo chất đạm trong khẩu phần ăn của trẻ từ nguồn gốc thực vật.

– Đối với nhóm trẻ suy dinh dưỡng do bị sinh non:

+ Trẻ cần được chăm sóc tỉ mỉ hơn ở trường cũng như ở nhà. Giáo viên và phụ huynh cần phối hợp để đưa ra thống nhất cách chăm sóc trẻ theo một chế độ nhất định. Trẻ cần được chăm sóc trong môi trường sạch sẽ, ấm áp vào mùa đông và thoáng mát về mùa hè. Thời gian ngủ cho trẻ nhiều hơn, ăn đầy đủ các chất dinh dưỡng và chế biến thức ăn phù hợp với khả năng hấp thu của trẻ, cần chú ý bổ sung hoa quả chín và sữa cho trẻ hàng ngày, kết hợp với chế độ luyện tập thích hợp, nhẹ nhàng.

+ Trong suốt quá trình giáo viên thực hiện công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ, tôi thường xuyên kiểm tra, đôn đốc để giáo viên thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả hơn.

– Đối với nhóm trẻ bị suy dinh dưỡng do biếng ăn:

Trước hết, tôi và các giáo viên tìm hiểu rõ nguyên nhân vì sao trẻ biếng ăn để có hướng chăm sóc hiệu quả. Trẻ biếng ăn có nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu tập trung vào 3 nhóm nguyên nhân chính sau đây:

+ Trẻ bị bệnh: Tất cả bệnh nhiễm khuẩn đều gây ra chứng biếng ăn, dù là nhiễm khuẩn nặng hay nhẹ, cấp tính hay mãn tính, một số bệnh lý toàn thân như còi xương, thiếu máu, thiếu vitamin,…. Đối với trường hợp này, giáo viên cần phối hợp với phụ huynh đưa trẻ đến chuyên khoa để được tư vấn và điều trị kịp thời, giúp trẻ mau hết bệnh và ăn uống bình thường trở lại.

+ Do sai lầm về ăn uống: Do thay đổi chế độ ăn, trẻ chưa quen với món ăn mới, cai sữa đột ngột hoặc quá chậm, cho trẻ ăn quá nhiều khiến trẻ không tiêu hoá hết thức ăn, ăn quá ít, chế độ không cân đối, cách chế biến thức ăn không phù hợp với khẩu vị của trẻ, bắt trẻ ăn một loại thức ăn trong nhiều ngày, cách chế biến không phù hợp với lứa tuổi của trẻ,…. Muốn trẻ ăn uống tốt trở lại thì cần thay đổi cách chế biến thức ăn, khẩu phần ăn đảm bảo về lượng và chất phù hợp với độ tuổi và khẩu vị của trẻ.

+ Do yếu tố tâm lý: Thường gặp ở những gia đình quan tâm lo lắng quá mức đến bữa ăn của trẻ, bắt trẻ ăn quá nhiều hoặc người cho ăn có thái độ không đúng (ép buộc), biến bữa ăn của trẻ thành nỗi sợ hãi ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ, mỗi khi nhìn thấy thức ăn là trẻ đã sợ hãi. Trường hợp này, giáo viên và cha mẹ trẻ cần tạo cho trẻ một không khí bữa ăn thật vui vẻ và đầm ấm, không nên la mắng, ép buộc trẻ ăn mà phải có biện pháp động viên, khích lệ trẻ, ngoài việc chế biến món ăn ngon còn phải chú ý đến màu sắc và mùi vị của món ăn,… giúp trẻ thích thú khi được ăn.

Như vậy, với biện pháp này, chỉ sau 3 tháng chỉ đạo thực hiện, kết quả thu được như sau (Bảng 1):

 

Độ tuổi

 

Tổng số HS SDD  thể nhẹ cân SDD thể thấp còi
SDD vừa SDD nặng Còi độ 1 Còi độ 2
Đầu năm Sau 3 tháng Đầu năm Sau 3 tháng Đầu năm Sau 3 tháng Đầu năm Sau 3 tháng
Nhà trẻ

 

12 1 1 0 0 1

 

0 3

 

3
Mầm

 

23 0 0 0   0

 

0 0

 

0
Chồi

 

31 5

 

4 0 0 4

 

4 0 0

 

60 7

 

5 1

 

1 6

 

5 1

 

1
TỔNG CỘNG 126 13 10 1 1 11 9 4 4

 

Biện pháp 5: Lên kế hoạch thực hiện phòng chống suy dinh dưỡng cho toàn trường thực hiện.

Là một cán bộ quản lý chúng ta không thể xem nhẹ việc thực hiện công việc bằng kế hoạch, bởi vì chỉ có kế hoạch mới giúp cho mình làm việc một cách khoa học được. Ý thức được điều này nên đầu năm học 2015-1016, tôi lên kế hoạch riêng cho công tác phòng chống suy dinh dưỡng cho trường chứ không làm chung với kế hoạch năm học bởi vì nếu làm chung với kế hoạch năm học thì không thể nào đưa ra hết được những yêu cầu, những biện pháp cụ thể bằng một kế hoạch riêng. Nhờ có kế hoạch riêng mà việc phòng chống suy dinh dưỡng trong nhà trường đạt được hiệu quả cao hơn. Các giáo viên dựa vào kế hoạch đó mà lên kế hoạch cụ thể cho lớp mình. Cuối mỗi tháng đều có nhận xét, xem những việc gì trong kế hoạch đã được thực hiện, những việc chưa thực hiện được từ đó tìm hiểu nguyên nhân chưa làm được để có biện pháp khắc phục liền ở tháng sau.

Sau khi kiểm tra sức khỏe cho trẻ đầu năm, tôi tiến hành họp phụ huynh của những cháu suy dinh dưỡng để thông báo tình hình suy dinh dưỡng của các cháu, thực hiện công tác tuyên truyền về kiến thức nuôi dạy con, phòng chống suy dinh dưỡng, cần gì để bé lớn lên và khỏe mạnh,,…Từ đó kết hợp với phụ huynh để cải thiện tình trạng suy dinh dưỡng cho trẻ như: hàng ngày ngoài bữa ăn ở trường thì phụ huynh cho trẻ mang thêm sữa dinh dưỡng vào trường để uống thêm. Còn đối với các cháu chưa bị suy dinh dưỡng thì qua cuộc họp phụ huynh định kỳ thực hiện kế hoạch tuyên truyền cho phụ huynh về kiến thức nuôi dạy con, phòng chống suy dinh dưỡng, cần gì để bé lớn lên và khỏe mạnh,… vận động phụ huynh cho trẻ khám sức khỏe định kỳ để kịp thời khắc phục khi trẻ có nguy cơ bị suy dinh dưỡng.

Bên cạnh đó nhà trường cũng luôn quan tâm tới công tác kiểm tra việc thực hiện phòng chống suy dinh dưỡng của toàn trường vì chỉ có kiểm tra mới có thể đánh giá được việc làm của từng bộ phận. Từ đó có cơ sở rút kinh nghiệm những gì làm được cũng như những gì chưa làm được và có biện pháp đối với những người chậm trễ so với kế hoạch. Do đó tôi luôn phải lên kế hoạch kiểm tra thường xuyên theo từng tháng.

Biện pháp 6: Chỉ đạo giáo viên chú ý tổ chức trò chơi vận động nhằm phát triển thể lực cho trẻ:

Ở trường Mầm non, việc giáo dục để phát triển thể lực cho trẻ thông qua nhiều nội dung như: Chăm sóc nuôi dưỡng, phát triển các vận động tinh – thô cho trẻ… và chúng ta có thể khẳng định rằng một cơ thể khỏe mạnh luôn là tiền đề cho mọi tài năng.

Trò chơi vận động có tầm quan trọng rất lớn đối với sự phát triển thể lực của trẻ. Trò chơi vận động thu hút nhiều trẻ tham gia chơi và hoàn thiện kỹ năng vận động cho trẻ ngoài ra trò chơi vận động còn tạo điều kiện để rèn luyện tố chất và phát triển thể lực. Trò chơi vận động làm tăng quá trình tuần hoàn hô hấp làm thay đổi trạng thái cơ thể giữa các hoạt động, giúp trẻ trở về trạng thái cân bằng, tăng cường lực sống đem lại sự vui vẻ, thỏa mái cho trẻ

Xác định vai trò của trò chơi vận động trong việc phát triển thể lực tôi đã chỉ đạo giáo viên chú ý đến việc tổ chức các trò chơi vận động như: thường xuyên  tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi vận động để phát triển các tố chất thể lực. Giáo viên cần có sự cân nhắc lựa chọn cho trẻ trò chơi và cách chơi đơn giản, dễ nhớ, dễ hiểu. Mỗi độ tuổi lại có mức độ nhận thức và khả năng chú ý có chủ định khác nhau. Chính vì thế, các trò chơi cũng cần phải được lựa chọn cho phù hợp với từng độ tuổi.

Cùng với việc tổ chức các trò chơi vận động kết hợp với chế độ chăm sóc nuôi dưỡng đến cuối năm học trẻ ở trường tôi đều có thể lực tốt. Trẻ khỏe mạnh, các bệnh về đường tiêu hóa ít khi xảy ra, trẻ nhanh nhẹn, hoạt bát, tự tin trong mọi hoạt động. Kỹ năng vận động, năng lực phối hợp cảm giác, năng lực định hướng trong vận động tốt.

Biện pháp 7: Thực hiện tốt các biện pháp vệ sinh phòng bệnh, vệ sinh cá nhân cô và trẻ

– Chăm sóc sức khỏe vệ sinh phòng bệnh, vệ sinh cá nhân của cô và trẻ  luôn được nhà trường quan tâm hàng đầu từ giấc ngủ, bữa ăn cho trẻ. Vào đầu năm học nhà trường trang bị đủ đồ dùng phục vụ cho lớp, nhóm như: đồ dùng cá nhân có ký hiệu riêng cho từng cháu, điện nước đầy đủ phục vụ tốt cho ăn ngủ, sinh hoạt,…

– Phòng học được sắp xếp ngăn nắp, thoáng mát, sạch sẽ tạo sự thoải mái trong học tập, sinh hoạt của các cháu.

– Giáo viên luôn quan tâm đến giấc ngủ của trẻ, theo dõi trẻ ngủ, không bỏ trẻ ngủ một mình, giúp tất cả các cháu đều được ngủ ngon, ngủ đủ giấc.

– Giáo viên kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, nhà trường trong việc theo dõi sức khỏe của trẻ, nhất là hiện nay dịch bệnh tay –chân –miệng, đau mắt đỏ và sốt xuất huyết đang lan rộng ở các trường học. Giáo viên hướng dẫn trẻ biết rửa tay 6 bước bằng xà phòng sạch sẽ trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh. Tập cho trẻ có thói quen ho, ngáp biết che miệng, biết giữ vệ sinh cá nhân. Hướng dẫn trẻ thói quen đánh răng sau khi ăn và sau khi ngủ dậy.

– Lớp học phải ngăn nắp, sạch, thông thoáng. Không cho trẻ chơi trong tối để ngừa muỗi đốt, dẫn đến trẻ bị sốt xuất huyết.

– Giáo viên thực hiện tốt các qui định của nhà trường như: cháu biết sử dụng đồ dùng cá nhân của mình bằng ký hiệu. Tổ chức giờ ăn: cần chuẩn bị tốt đồ dùng ,dụng cụ phục vụ cho giờ ăn đầy đủ.

Nhờ thực hiện tốt các biện pháp vệ sinh phòng bệnh, vệ sinh cá nhân cô và trẻ đến cuối năm học 95% trẻ có thói quen vệ sinh tốt, giữ gìn vệ sinh thân thể gọn gàng, sạch sẽ.

Biện pháp 8: Phối hợp với trạm y tế xã  khám sức khỏe và cân đo theo định kỳ, kiểm tra thường xuyên vệ sinh an toàn thực phẩm

Phối hợp với trạm y tế xã khám sức khoẻ và cân đo theo định kỳ, kiểm tra thường xuyên VSATTP Phối hợp tốt với cơ sở y tế trong công tác chăm sóc sức khoẻ cho trẻ là một trong những biện pháp quan trọng trong công tác phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ. Chính vì vậy mà nhà trường luôn phối kết hợp tốt với trạm y tế xã trong việc chăm sóc sức khoẻ, quản lý tiêm chủng, phòng dịch bệnh cho trẻ và thường xuyên kiểm tra khâu vệ sinh an toàn thực phẩm của nhà trường.

– Hàng năm nhà trường phối hợp với trạm y tế xã khám sức khỏe cho trẻ 2 lần/năm theo dõi, kiểm tra và phân loại sức khỏe của trẻ theo biểu đồ tăng trưởng để có chế độ chăm sóc kịp thời, phù hợp. Kết quả khám sức khỏe và tẩy giun cho trẻ định kỳ lần 1:

+Trẻ có sức khỏe bình thường  loại A: 95 trẻ chiếm tỉ lệ 75.4%

+ Trẻ có sức khỏe loại B: 30 trẻ chiếm tỉ lệ  23.8%

+ Trẻ có sức khỏe loại C: 1 trẻ chiếm tỉ lệ  0.79%

– Những trẻ có biểu hiện như: béo phì, suy dinh dưỡng cần kiểm tra, cân đo hàng tháng để điều chỉnh chế độ ăn cho phù hợp. Những trẻ có biểu hiện như béo phì, suy dinh dưỡng cần kiểm tra, cân đo hàng tháng để điều chỉnh chế độ ăn cho phù hợp.

– Nhà trường tích cực tham mưu kết hợp y tế xã với hội cha mẹ học sinh tổ chức bữa ăn dinh dưỡng, phụ huynh sẽ trực tiếp nghe cán bộ y tế nói chuyện về dinh dưỡng, cách chăm sóc trẻ suy dinh dưỡng.

– Kiểm tra sức khỏe cho đội ngũ cấp dưỡng trước khi hợp đồng làm việc theo định kỳ hàng năm.

– Giáo viên được khám sức khỏe 2 lần/năm.

– Tổ chức kiểm tra tay nghề hàng năm cho đội ngũ cấp dưỡng về vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, vệ sinh cá nhân.

– Tổ chức đo đạt chất lượng môi trường.

Biện pháp 9:  Coi trọng công tác tuyên truyền và kết hợp chặt chẽ với phụ huynh để khắc phục tình trạng suy dinh dưỡng.

Tuyên truyền đối với trẻ:

Đối với những trẻ học trong trường mầm non, tôi chỉ đạo giáo viên tiến hành tuyên truyền bằng cách lồng ghép giáo dục dinh dưỡng vào các hoạt động như: Làm quen văn học, Khám phá khoa học, Thể dục, Giáo dục âm nhạc,.. một cách nhẹ nhàng, tự nhiên không gò ép. Thể hiện rõ nhất vào hoạt động vui chơi của trẻ chính là hoạt động “ bé tập làm nội trợ”, giáo viên dạy trẻ có biết sử dụng thành thạo các đồ dùng dụng cụ như dao, thớt, cốc , chén,…. Qua các hoạt động và trò chơi giúp trẻ nhận biết và nhớ lâu những kiến thức về dinh dưỡng và sức khoẻ, giúp trẻ có thể vận dụng tốt trong các hoạt động hàng ngày.

Tuyên truyền đồng thời kết hợp chặt chẽ với phụ huynh để khắc phục tình trạng suy dinh dưỡng:

Công tác tuyên truyền đây là việc nhà trường xác định có tầm quan trọng lớn để đem đến hiệu quả trong việc chăm sóc và phòng ngừa suy dinh dưỡng cho trẻ. Công tác tuyên truyền là chủ yếu với nhiều hình thức khác nhau.

Lập kế hoạch tuyên truyền hàng tháng cho phụ huynh trong cả năm, các chủ điểm, tuyên truyền được xây dựng sắp xếp vào mỗi tháng xoay quanh các yêu cầu như:

– Lượng thông tin bao gồm các vấn đề liên quan đến dinh dưỡng, vệ sinh, phòng bệnh. Các hoạt động hưởng ứng các phong trào giáo dục sức khỏe của nhà trường.

– Nội dung tuyên truyền căn cứ vào tình hình sức khỏe của học sinh, tình hình bệnh tật có thể phát sinh do thời tiết, khí hậu, môi trường cần được nhắc nhở để đề phòng và xử lý kịp thời.

– Tình hình hiểu biết về nuôi con của cha mẹ.

– Thời điểm chọn nội dung tuyên truyền được gắn kết cùng thời điểm với các nội dung truyền thông, trên các phương tiện thông tin đại chúng như: để hưởng ứng tháng hành động về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm trường cũng có băng ron tuyên truyền hưởng ứng.  Đồng thời trên các bảng tuyên truyền của nhóm lớp phổ biến các tin  như: lựa chọn thực phẩm an toàn, cách chế biến hợp vệ sinh, cách ăn uống hợp vệ sinh, dạy trẻ rửa tay theo 6 bước bằng xà phòng, cách bảo quản thức ăn, giới thiệu hoạt động hội thi tay nghề cấp dưỡng đang diễn ra trong trường,…

Lên kế hoạch tuyên truyền về nội dung chăm sóc nuôi dưỡng trẻ tại các nhóm lớp. Lượng thông tin bao gồm các vấn đề liên quan đến dinh dưỡng, vệ sinh, phòng bệnh, các hoạt động hưởng ứng các phong trào giáo dục sức khỏe của nhà trường cụ thể:

-Tình hình sức khỏe của trẻ qua biểu đồ tăng trưởng.

-Tình hình bệnh tật của trẻ có thể phát sinh do thời tiết, khí hậu, môi trường để phụ huynh có thể nắm được và biết cách phòng tránh bệnh tật cho trẻ.

– Các thông tin cần thiết về cách chăm sóc con,..

Quan tâm đầu tư các góc tuyên truyền của trường và lớp. Kết hợp với bản tin và hình ảnh được thay đổi nhiều lần trong tháng để thu hút sự quan tâm chú ý của phụ huynh.

Tổ chức khám, tư vấn cho phụ huynh có trẻ bị suy dinh dưỡng, tổ chức các hội thi tìm hiểu về dinh dưỡng,…Thông báo cho phụ huynh biết tình hình sức khỏe của trẻ qua các cuộc họp, qua các buổi đưa đón trẻ, trao đổi trực tiếp với phụ huynh từ đó giúp cho giáo viên và phụ huynh nắm được cá tính của từng trẻ để có biện pháp uốn nắn kịp thời, phụ huynh hiểu rõ và ủng hộ nhà trường trong công tác phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ.

Tăng cường phối hợp với  tổ trưởng, tổ phó hội cha mẹ học sinh của các nhóm lớp để kiểm tra định kỳ đầu tháng hoặc đột xuất trong tháng. Kiểm tra khâu cung ứng đến sơ chế và chế biến thực phẩm đến khẩu phần ăn của trẻ. Quan sát bữa ăn của trẻ, cùng chăm sóc trẻ theo đúng khoa học. Song song đó, nhà trường tích cực tham mưu kết hợp với hội cha mẹ học sinh tổ chức hội thi nấu ăn, vệ sinh an toàn thực phẩm, bữa ăn dinh dưỡng, các hình thức thi trắc nghiệm, hỏi đáp, hoặc thông qua các trò chơi, các tiết mục văn nghệ đã phản ánh được kiến thức khả năng thực hành của cha mẹ và trẻ. Hội thi đã tạo được bầu không khí cùng nhau tích cực tìm hiểu, học tập và qua đó cũng tuyên truyền sâu rộng tới phụ huynh học sinh và cộng đồng về vấn đề dinh dưỡng và sức khỏe trẻ.

Biện pháp  10: Xây dựng thực đơn chuẩn.

Trường Mầm Non Vĩnh Trị là trường tổ chức học bán trú nên việc phục hồi trẻ suy dinh dưỡng lệ thuộc rất lớn vào các bữa ăn của trẻ tại trường. Do đó, tôi lên kế hoạch xây dựng thực đơn bám sát theo chương trình giáo dục Mầm non của Bộ Giáo dục và Đào tạo với nhu cầu khuyến nghị về năng lượng tại trường của một trẻ trong một ngày. Đối với trẻ nhà trẻ từ 24 – 36 tháng: 708 – 826 Kcal (chiếm 60%-70% nhu cầu cả ngày); đối với trẻ mẫu giáo: 735 – 882 Kcal (chiếm 50% – 60% nhu cầu cả ngày). Vì thế, trong bữa ăn của trẻ tại trường, tôi luôn xây dựng sao cho đáp ứng đầy đủ 5 yêu cầu sau đây:

– Đảm bảo đủ lượng kcal.

– Cân đối các chất P (Protit) – L (Lipit) – G (Gluxit).

– Thực đơn đa dạng, phong phú, sử dụng nhiều loại thực phẩm đặc biệt thực phẩm tại địa phương.

– Thực đơn thay đổi theo mùa, tuần, ngày và phù hợp với trẻ.

– Đảm bảo chế độ tài chánh.

Muốn xây dựng một thực đơn cân đối ta phải bám sát các yêu cầu trên, yêu cầu đó luôn là tổng thể thống nhất trong mỗi thực đơn:

Đảm bảo đủ lượng kcal:

Năng lượng chủ yếu được cung cấp từ bột đường (G) và chất béo (L). G có nhiều trong các loại ngũ cốc và đường. L có nhiều trong mỡ động vật và các loại hạt có tinh dầu. Khi xây dựng thực đơn tôi luôn chú ý kết hợp giữa hai loại thực phẩm nhiều kcal và thực phẩm ít kcal với nhau để đảm bảo lượng kcal cần thiết cho một ngày.

– Ví dụ: Bữa chính:

+ Món mặn: Chả cá nạo sốt cà chua.

+ Món canh: Canh súp rau củ (khoai tây, su hào, cà rốt,…)

– Món chả cá nạo sốt cà chua – Vì là cá đồng nên lượng kcal thấp, khi kết hợp với canh súp rau củ – có lượng kcal cao sẽ tạo nên sự cân đối về năng lượng của bữa ăn.

Cân đối tỷ lệ các chất P (Protit) – L (Lipit) – G (Gluxit):

– Protit hết sức cần thiết cho sự phát triển trí tuệ của trẻ, là nguyên liệu chủ yếu để xây dựng nên các tố chất trong cơ thể. P có nhiều trong thịt, cá, trứng, sữa, đậu, lạc, vừng,…

– Lipit là nguồn cung cấp năng lượng. Những loại thức ăn giàu L gồm: dầu ăn, mỡ động vật, một số loại hạt có nhiều tinh dầu.

– Gluxit là nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu trong cơ thể. G có nhiều trong gạo, bột mì, miến, đường, đậu,…

Vì vậy, trong bữa ăn hàng ngày ta cần đảm bảo đầy đủ các loại thực phẩm. Cân đối thực đơn sao cho đảm bảo tỷ lệ P-L-G: : Đối với trẻ nhà trẻ Protit (chất đạm) khoảng 12% – 15%; Lipit (chất béo) khoảng 35% – 40%; Gluxit (chất bột) khoảng 45% – 53%, đối với mẫu giáo: Protit (chất đạm) khoảng 12% – 15%; Lipit (chất béo) khoảng 20% – 30%; Gluxit (chất bột) khoảng 55% – 68%.

Thực đơn đa dạng, phong phú, sử dụng nhiều loại thực phẩm đặc biệt thực phẩm tại địa phương.

– Tất cả các chất dinh dưỡng đều rất cần thiết cho cơ thể trẻ ở lứa tuổi mầm non vì thế trong mỗi bữa ăn hàng ngày của trẻ ta phải kết hợp nhiều loại thực phẩm, có đủ 4 nhóm dưỡng chất: Bột đường, chất béo, vitamin và khoáng chất. Như vậy, thực đơn mới phong phú, đảm bảo đầy đủ nhu cầu về năng lượng và các chất dinh dưỡng.

– Để có nguồn thực phẩm phong phú và đảm bảo chất lượng, an toàn, vệ sinh nhà trường đã ký hợp đồng với những cơ sở cung cấp thực phẩm đáng tin cậy, tận dụng tối đa nguồn thực phẩm sẵn có của địa phương như: Lươn, tôm, cua, cá, gà đất, rau, củ, quả,…

Thực đơn thay đổi theo mùa, tuần, ngày và phù hợp với trẻ:

– Ở lứa tuổi mầm non đòi hỏi nhu cầu về dinh dưỡng và năng lượng vô cùng quan trọng, vì thế khi chế biến món ăn cũng phải đặc biệt quan tâm về khẩu vị và trạng thái thức ăn.

– Khi xây dựng thực đơn tôi luôn chú ý đến các món ăn của trẻ nhất là khâu chế biến như băm, thái nhỏ, nấu mềm. Các món ăn mặn tôi yêu cầu chế biến thêm nước sốt cho trẻ dễ ăn hơn.

– Ăn uống còn phụ thuộc vào điều kiện khí hậu từng mùa. Như mùa hè thời tiết nóng nực nhu cầu vê các món ăn có nhiều nước tăng lên, các món canh chua, canh cua,… trẻ thường rất thích. Còn mùa đông thời tiết lạnh tôi sử dụng các món xào, chiên,…trẻ sẽ ăn nhiều hơn. Ngoài việc thay đổi thực đơn theo mùa, tôi còn thường xuyên thay đổi, đa dạng món ăn từng tuần, từng ngày và từng bữa ăn để tăng phần hấp dẫn trẻ.

           Đảm bảo chế độ tài chánh:

Với mức thu tiền ăn là 15.000/ngày/trẻ, trong thời buổi kinh tế hiện nay, để xây dựng được một thực đơn đầy đủ năng lượng và dinh dưỡng, đạt tỷ lệ các dưỡng chất, phong phú đa dạng các món ăn, đòi hỏi tôi phải biết kết hợp giữa món ăn chế biến từ thực phẩm đắt tiền và món ăn chế biến từ thực phẩm rẻ tiền mà vẫn phải đảm bảo đủ các yêu cầu trên.

Ý thức được tầm quan trọng của việc xây dựng thực đơn chuẩn, ngay từ đầu năm tôi đã tiến hành và áp dụng song song các biện pháp với nhau. Kết quả thu được sau 3 tháng như (Bảng 1).

Biện pháp 11: Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát.

Phải nói rằng công tác kiểm tra đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, góp phần giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ. Kiểm tra vừa là một biện pháp về mặt quản lý vừa là động lực thúc đẩy để các bộ phận làm việc một cách nghiêm túc, có chất lượng và đạt hiệu quả cao hơn. Do vậy, công tác kiểm tra phải thực hiện một cách khoa học, nghiêm túc. Qua kiểm tra giúp giáo viên đúc rút được nhiều kinh nghiệm trong quá trình giáo dục trẻ, từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trẻ trong trường Mầm non.

Công tác kiểm tra được tiến hành bằng nhiều hình thức khác nhau: Tự kiểm tra, đánh giá, kiểm tra báo trước, kiểm tra định kỳ, kiểm tra đột xuất, kiểm tra chéo,…Đối tượng được kiểm tra trong công tác phòng chống suy dinh dưỡng trong trường mầm non chủ yếu là các bộ phận trực tiếp thực hiện công tác nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ: cấp dưỡng, giáo viên,.…

– Kiểm tra đối với cấp dưỡng: Cấp dưỡng là người trực tiếp chăm lo bữa ăn cho trẻ hàng ngày nên cần kiểm tra về một số nội dung sau:

+ Kiểm tra việc tiếp nhận thực phẩm: Có ghi chép, cân đo đúng số lượng hay không? Có kiểm tra chất lượng thực phẩm không? Có chữ ký người giao và người nhận hay không? Có đúng theo hợp đồng thực phẩm chưa?..

+ Kiểm tra quy trình chế biến có đúng quy định một chiều không? Các dụng cụ chế biến thực hiện như thế nào? Trang phục cấp dưỡng có đúng theo quy định không? Cân đo và chia thức ăn sau khi nấu chín như thế nào? Chế biến món ăn có theo nguyên tắc vệ sinh an toàn thực phẩm hay không? Các món ăn khi chế biến có đảm bảo đủ 3 ngon : “Ngon mắt, ngon mũi và ngon miệng”, hợp khẩu vị, màu sắc hấp dẫn đối với trẻ không? Nhà bếp có được vệ sinh sạch sẽ không? Có thực hiện lưu mẫu thức ăn theo quy định không?…

– Kiểm tra đối với giáo viên các lớp:

+ Kiểm tra vệ sinh cô, trẻ (trang phục, móng tay, mặt mũi, đầu tóc) có sạch sẽ, gọn gàng hay không? Kiểm tra đồ dùng cá nhân của trẻ: khăn, ly uống nước, bàn chải đánh răng,…có sạch sẽ hay không?

+ Kiểm tra công tác tổ chức bữa ăn như: Có đủ bàn ghế, sạch sẽ, hợp vệ sinh không? Sắp xếp chỗ ngồi ăn của trẻ có phù hợp không? Có đủ đồ dùng phục vụ bữa ăn cho trẻ không? Có lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục dinh dưỡng cho trẻ vào các hoạt động vui chơi, học tập cho trẻ hay không?…

+ Ngoài ra, tôi còn kiểm tra việc thực hiện lịch sinh hoạt, tổ chức các hoạt động có vừa sức hay không? Vệ sinh lớp học như thế nào? Kiểm tra hồ sơ theo dõi sức khoẻ (biểu đồ, sổ theo dõi sức khoẻ). Từ đó hướng dẫn, bổ sung, điều chỉnh kịp thời giáo viên.

+ Bên cạnh đó, tôi cũng thường xuyên theo dõi, giám sát, kiểm tra đối với giáo viên về hành vi: đánh đập, doạ nạt, quát mắng trẻ, thiếu tinh thần, trách nhiệm trong chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Để có biện pháp xử lý, chấn chỉnh kịp thời đối với những trường hợp vi phạm vì điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng tinh thần và sức khoẻ của trẻ.

– Ngoài việc kiểm tra cấp dưỡng, giáo viên thì việc kiểm tra cơ sở vật chất phục vụ bán trú cũng rất quan trọng. Tôi cũng tiến hành kiểm tra thường xuyên để kịp thời sửa chữa, bổ sung nhằm đáp ứng nhu cầu phục vụ tốt nhất cho việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ.

Song song với những biện pháp trên, trong những năm học qua tôi còn áp dụng nhiều biện pháp khác hạn chế tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng như:

– Tính khẩu phần ăn của trẻ bằng phần mềm Nutrikids.

– Tổ chức cho trẻ ăn dặm tại trường: 1 cử sữa/ ngày (100ml/cử).

– Thực hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh trong nhà trường.

– Bồi dưỡng nâng cao tay nghề năng lực thực hành của đội ngũ nhân viên cấp dưỡng trong nhà trường.

– Hợp đồng thực phẩm với các cá nhân, cơ sở đáng tin cậy để được cung cấp thực phẩm đảm bảo chất lượng về vệ sinh an toàn thực phẩm một cách thường xuyên và được bảo đảm bằng sự cam đoan có tính pháp lý trước pháp luật của bên cung cấp thực phẩm, đảm bảo giá cả hợp lý, ổn định.

– Nhà vệ sinh sạch sẽ, khai thông cống rãnh xung quanh trường, lớp, xử lý rác thải, tạo môi trường, cảnh quan xanh, sạch, đẹp, an toàn tạo điều kiện để trẻ phát triển tốt.

– Tổ chức sưu tầm trò chơi, câu đố, ca dao, thơ, thực đơn,… về dinh dưỡng.

          2.4- Kết quả, chuyển biến:

Phòng chống suy dinh dưỡng là trách nhiệm chung của toàn xã hội nhằm giúp trẻ luôn có thể lực khỏe mạnh có hứng thú tham gia vào các hoạt động. Trẻ khỏe mạnh ít ốm đau là niềm hạnh phúc của gia đình. Ngược lại nếu không làm tốt công tác phòng chống suy dinh dưỡng thì sẽ làm tổn thương về mặt thể lực cũng như tinh thần của trẻ. Chính vì vậy ngoài việc giáo dục, trang bị những kiến thức cho trẻ thì người lớn phải chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ theo khoa học để trẻ không bị suy dinh dưỡng. Mặt khác công tác chỉ đạo chống suy dinh dưỡng trẻ ở trường Mầm non của người quản lý phải hết sức năng động, sáng tạo và phải thường xuyên liên tục.

Muốn phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em cần có sự hiểu biết, chủ động và thay đổi thực hành của mỗi gia đình. Do đó, chương trình phòng chống suy dinh dưỡng lấy gia đình là đối tượng thực hiện công tác chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ em.

Do đổi mới kịp thời về công tác quản lý chỉ đạo, đổi mới công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho công tác nuôi dưỡng. Vì vậy, mà năm học 2015– 2016 số trẻ suy dinh dưỡng đã giảm đi, bước đầu đã gây ấn tượng và niềm tin của các bậc phụ huynh đối với chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng của nhà trường.

 

 

 

 

 

Kết quả khảo sát cuối năm như sau:

Độ tuổi TS Trẻ ra lớp TS trẻ được cân đo Số trẻ SDD Số trẻ thấp còi
SDDV SDDN Độ 1 Độ 2
Nhà trẻ

 

12 12 0 0 1

 

2
Mầm

 

23 23 0 0 0 0
Chồi

 

31 31 0

 

0 0

 

0

 

 

60 60 1

 

0 4

 

0

 

TỔNG CỘNG 126 126 1 0 5 2

 

+Số trẻ SDD: 1 trẻ chiếm 0.79%  giảm 10.32% so với đầu năm

+Số trẻ thấp còi: 7 trẻ chiếm 5.55% giảm 6.35% so với đầu năm

Kết quả khám sức khỏe lần 2 :

+Trẻ có sức khỏe bình thường  loại A: 101 trẻ chiếm 80.2%

+ Trẻ có sức khỏe loại B: 25 trẻ chiếm 19.8%

+ Trẻ có sức khỏe loại C: 0 trẻ chiếm 0 %

Từ những kết quả trên cho thấy rằng tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng giảm đi đáng kể so với đầu năm học. Trẻ phát triển cân đối hài hòa, nhanh chóng hoạt bát, tích cực tham gia vào các hoạt động của lớp và các hoạt động hàng ngày.

  3- KẾT LUẬN:

           3.1- Tóm lược giải pháp:

Suy dinh dưỡng là một trong những gánh nặng của các nước có nền kinh tế kém phát triển và những nước đang phát triển. Mặc dù, Đảng và nhà nước ta có chương trình Quốc gia phòng chống suy dinh dưỡng đặt ra những mục tiêu cụ thể, tuy nhiên tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở những vùng sâu, vùng xa còn rất cao do kinh tế khó khăn và do các bậc cha mẹ chưa có kiến thức nuôi dưỡng con theo khoa học.

Qua những năm làm công tác quản lý phụ trách công tác chăm sóc, nuôi dưỡng của nhà trường, tôi thấy rằng: việc nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng nói chung và phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ ở trường Mầm non nói riêng là vô cùng cần thiết và luôn đồng hành với trẻ, vì vậy:

Cần bồi dưỡng kiến thức thực hành dinh dưỡng, thực hiện tốt vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh trong chế biến cho đội ngũ cán bộ giáo viên, phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ.

Muốn phòng chống suy dinh dưỡng có hiệu quả cần phải giúp cho trẻ có đầy đủ thức ăn để sinh trưởng, phát triển và vận động. Để thực hiện tốt công tác phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ thì ngay từ đầu năm học nhà trường tổ chức vận động cho trẻ được bán trú tại trường, nhà trường luôn đảm bảo chế độ ăn theo quy định, thay đổi chế độ ăn, thực đơn phù hợp.

Quan tâm đến việc theo dõi sức khỏe của trẻ thường xuyên để có biện pháp kịp thời hạn chế trẻ suy dinh dưỡng trong nhà trường. Thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ. Cân đo, theo dõi sức khoẻ, chấm biểu đồ một cách chính xác.

Chỉ đạo giáo viên tìm hiểu nguyên nhân trẻ bị suy dinh dưỡng.

Lên kế hoạch thực hiện phòng chống suy dinh dưỡng cho toàn trường, cần được triển khai nghiêm túc, chỉ đạo chặt chẽ việc xây dựng và thực hiện kế hoạch đến từng nhóm, lớp.

Chỉ đạo giáo viên chú ý tổ chức trò chơi vận động nhằm phát triển thể lực cho trẻ.

Thực hiện tốt các biện pháp vệ sinh phòng bệnh, vệ sinh cá nhân cô và trẻ

Phối hợp với trạm y tế xã  khám sức khỏe và cân đo theo định kỳ, kiểm tra thường xuyên vệ sinh an toàn thực phẩm .

Coi trọng công tác tuyên truyền và kết hợp chặt chẽ với phụ huynh để khắc phục tình trạng suy dinh dưỡng.

Xây dựng thực đơn chuẩn (đảm bảo đủ lượng kcal, cân đối các chất, đa dạng, phong phú, sử dụng nhiều thực phẩm khác nhau, thay đổi theo mùa, theo tuần, theo ngày và đảm bảo chế độ tài chánh). Thiết lập hồ sơ quản lý chế độ ăn cho trẻ chặt chẽ, có sự thống nhất, phù hợp với tình hình thực tế của đơn vị.

Thực hiện tốt công tác kiểm tra nội bộ trường học, trong đó chú trọng kiểm tra chế độ dinh dưỡng của trẻ. Trong khi kiểm tra đòi hỏi người cán bộ kiểm tra phải tinh thông về nghiệp vụ, nhanh nhạy nắm bắt tình hình thực tế, linh hoạt xử lý mọi tình huống, có kết luận chính xác.

Chú trọng vệ sinh an toàn thực phẩm, từ khâu mua thực phẩm đến khâu sơ chế, chế biến, bảo quản và tổ chức cho trẻ ăn.

Nếu làm được như vậy, thì tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ sẽ giảm đi đáng kể, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ, xứng đáng là người “Gieo mầm xanh cho tương lai”.

3.2- Phạm vi đối tượng – kiến nghị:

  3.2.1- Phạm vi đối tượng áp dụng:

Sáng kiến kinh nghiệm này đã được áp dụng tại Trường Mầm Non Vĩnh Trị trong năm học 2015-2016. Ngoài ra, sáng kiến này còn có thể áp dụng được đối với tất cả các trường Mầm non.

  3.2.2- Kiến nghị:

Căn cứ vào thực tế của nhà trường, tình hình chăm sóc nuôi dưỡng trẻ năm học 2015-2016 tôi có một số kiến nghị như sau:

– Cần phát huy hơn nữa vai trò của địa phương trong công tác phòng chống suy dinh dưỡng.

– Phòng Giáo dục và Đào tạo cần tạo điều kiện cho cấp dưỡng được tham quan học hỏi các đơn vị làm tốt công tác phòng chống suy dinh dưỡng để học hỏi thêm kinh nghiệm.

Vĩnh Trị, ngày 28  tháng 04 năm 2016

Người viết sáng kiến

 

Nguyễn Thị Thúy Hằng                                                                                             

MỤC LỤC

 

1.LÝ DO CHỌN DỀ TÀI                                                                   Trang    

1.1.Đặt vấn đề                                                                                      01 – 02

1.2.Mục đích chọn đề tài                                                                                        02

1.3.Lịch sử đề tài                                                                                          02

1.4.Phạm vi đề tài                                                                                         02

 

2.NỘI DUNG CÔNG VIỆC

2.1.Thực trạng đề tài                                                                             02 – 05

2.2.Nội dung                                                                                                  05 – 06

2.3.Biện pháp                                                                                                 06 – 22

2.4.Kết quả, chuyển biến                                                                                22 – 23

 

  1. KẾT LUẬN

3.1.Tóm lược giải pháp                                                                                  23 – 25

3.2. Phạm vi đối tượng-kiến nghị